Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

Audio book Những cây cầu ở quận Madison- Robert James Waller






Link nghe audio + book miễn phí: http://vnaudiobook.com/audio-books-Nhung-cay-cau-o-quan-Madison-540.html

Tác giả: Robert James Waller
Nhà xuất bản : Trẻ

Nội dung truyện:


Robert Kincaid

Ngày 8 tháng 8 năm 1965, buổi sáng. Robert Kincaid đóng cửa căn hộ hai phòng nhỏ xíu thuộc tầng ba trong một toà nhà hình dạng khá kỳ cục ở Bellingham, tiểu bang Washington. Ông bước xuống cầu thang gỗ, tay xách vali, còn chiếc ba lô đeo lưng chứa đầy dụng cụ nhiếp ảnh, qua hành lang ra phía cửa dẫn đến chiếc xe tải cỡ nhỏ cũ kỹ của mình hiệu Chevrolet, đang đậu ở chỗ dành riêng cho người sống trong chung cư.

Trong xe, có một ba lô khác, một thùng đựng nước đá cỡ nhỏ, vài bịch Camel, một bình thuỷ, một giỏ trái cây. Sau ”cốp“ xe, để một cây đàn ghi-ta. Ông đặt hai xắc vào chỗ ngồi, còn thùng nước đá và giá máy ảnh thì cho nằm trên sàn. Vòng ra phía sau nhét lại cây đàn và chiếc vali, chèn thêm một bánh xe ”xơ cua“ vào cho khỏi lắc rồi buộc bằng một sợi dây vải. Dưới sợi dây, ông còn phủ một miếng vải dầu cho chắc ăn.

Rồi ông ngồi vào tay lái, đốt một điếu Camel và đưa mắt nhìn đồ đạc đem theo một lần cuối: gần 200 tấm phim các loại, nhất là phim Kodachrome tốc độ chậm; mấy cái giá ba chân, thùng nước đá, ba máy ảnh và năm ống kính; mấy chiếc quần jean và ka-ki, sơ-mi. Ô kê. Đủ rồi. Nếu có quên gì thì có thể mua dọc đường.

Kincaid mặc một chiếc quần Levi’s bạc màu, ủng đi đương hiệu Red Wing cũ mèm, áo sơ mi ka-ki, dây đeo quần màu vàng. Nơi chiếc nịt bằng da to bự đeo một con dao loại của quân đội dùng, nằm trong bao.

Ông nhìn đồng hồ: 8 giờ 17. Chiếc xe tải nhỏ nổ máy. Ông phóng nhanh qua những ngõ hẹp dưới ánh mặt trời đang còn bị che khuất. Ông băng qua Bellingham, theo hướng Nam về đường Washington 11, men đường ở Puget Sound vài kilômét rồi theo đường quốc lộ hơi chếch về hướng Tây trước khi đến giao lộ để đi vào đường 20.

Ông chuyển vào con lộ dài và ngoằn ngoèo xuyên qua rặng Cascades dưới ánh mặt trời. Ông thích vùng này và cảm thấy rất tự do, khi ngừng lại chỗ này chỗ kia để ghi chú, đề phòng lần sau có thể ghé lại hoặc để chụp một vài tấm ảnh mà ông gọi là loại ảnh ”aide-mémeire“. Sau đó ông có thể xem lại và nếu thấy thích thì có thể nghiên cứu kỹ càng hơn. Cuối chiều, Kincaid đi về phía Bắc đến lộ 2 dẫn tới phía Bắc Hoa kỳ, tới Duluth của bang Minnesota.

Hàng ngàn lần trong đời, ông tự nhủ mình cần có một con chó, chắc là một loại chó săn màu vàng, để đem theo trong những chuyến đi như thế này và làm bạn đồng hành khi về nhà. Nhưng ông thường đi vắng quá, và cuộc sống như thế không phù hợp với súc vật. Dẫu vậy, ông vẫn mãi nghĩ đến điều đó. Một vài năm nữa, ông sẽ quá già, không làm nổi những phóng sự về phong cảnh đất đai như thế này nữa. ”Lúc đó có lẽ mình sẽ kiếm một con chó“ - ông nói với hàng thông đang vút xa nơi kính chiếu hậu.

Những cuộc đi xa như thế này càng thôi thúc ông ý định đó. Con chó sẽ là bạn đường. Bởi Robert Kincaid là một người cô đơn. Ông là đứa con duy nhất, cha mẹ đều chết, một gia đình xa vời đã mất dấu, như chính ông đã mất dấu về mình, không một người bạn thân. Ông chỉ biết tên của người chủ hiệu bán thực phẩm ở Bellingham và người chủ tạp chí mà ông cung cấp ảnh. Ngoài ra, ông chỉ giữ mối liên lạc nghề nghiệp hoàn toàn hình thức với người chủ biên của tạp chí. Ngoài những người này ra, ông hầu như không biết một ai và cũng chẳng ai biết ông. Những người du mục là những kẻ khó kết bạn nhất với những người bình thường mà ông thì có một ít chất du mục trong người.

Ông nghĩ tới Marian. Bà này đã chia tay chín năm trước đây sau năm năm chung sống. Giờ đây ông 52 tuổi, vậy thì bà ta hẳn phải 40. Marian ước muốn thành nhạc công hoặc ca sĩ dân ca. Bà biết tất cả các bài hát của Weaver và trước đây hát khá hay trong các quán ăn ở Seattle. Vào thời đó, những khi ông ở nhà, ông thường dẫn bà đi nghe nhạc và cố ở lại trong phòng đợi đến phiên bà lên sân khấu.

Những lần vắng mặt dài - có khi hàng hai, ba tháng - đè nặng lên cuộc sống vợ chồng của họ. Ông biết thế. Khi cưới nhau, Marian biết cuộc sống của ông là như thế, nhưng cả hai nghĩ mơ hồ rằng họ có thể hòa hợp với nhau. Hoá ra không thể. Lần nọ, khi ông trở về sau một hành trình làm phóng sự ở Băng Đảo, Marian không còn ở nhà. Bà chỉ nhắn lại vỏn vẹn: ”Robert, không thể như thế này mãi được. Em để lại cây ghi-ta. Sẽ liên lạc với nhau“.

Ông không liên lạc. Bà cũng vậy. Khi nhận được giấy tờ ly hôn - một năm sau đó - ông ký rồi ngay ngày hôm sau lên máy bay sang úc. Bà không đòi hỏi điều gì ngoài sự tự do.

Tại Kalispell, bang Montana, khá khuya, ông dừng lại để nghỉ. Quán trọ giá rẻ, phục vụ cũng tốt. Ông chuyển đồ đạc vào phòng, có hai ngọn đèn giường, một bóng mờ. ÔNg duỗi trên giường, nhấp một ngụm bia, đọc Những ngọn đồi xanh ở Châu Phi rồi ngủ tiếp. Sáng sớm, ông xuống chạy bộ độ hơn nửa giờ, là mười lăm cái hít đất rồi đi sửa soạn máy ảnh như thế đó là phần cuối của bài thể dục...

Ông đi xuyên qua Montana, tiến vào North - Dakota. Cái vùng đất bát ngát, bằng phẳng và khô khan này cũng quyến rũ ông như là vùng núi hay biển. Nó toát ra một vẻ đẹp khắc khổ và ông phải dừng lại nhiều lần, đặt giá ảnh để chụp mấy tấm ảnh đen trắng các nông trại cũ kỹ. Cái xứ sở khô cằn này hợp với khuynh hướng khắc kỷ, khổ hạnh của ông. Các vùng đất dành riêng cho người da đỏ này mang một vẻ u buồn trầm uất vì nhiều lý do mà người ta có thể biết hoặc không biết.

Sáng 14 tháng 8, ông ở lại hai tiếng ở Duluth, rồi quặt về phía Tây Bắc, theo đường đến Bibbing và qua các mỏ sắt. Qua màn bụi đỏ, người ta có thể thấy những chiếc máy khổng lồ và những đoàn toa xe chở quặng sắt đến tận những chiếc tàu bốc hàng neo ở vùng Thượng Hồ. Ông nghỉ lại suốt chiều, đi dạo ở Hibbin và thấy rằng nơi đây không phải là chốn thích hợp với ông, cho dù Bob Dylan có sinh ra ở đây đi nữa.

Cô gái từ miền phía Bắc là bài hát duy nhất của Dylan mà ông không bao giờ thích, dù ông có thể vừa chơi ghi-ta bài này vừa hát. Ông vừa hát nhẩm cho mình nghe vừa rời khỏi cái vùng đầy hang hốc màu đỏ khổng lồ này. Trước đây, Marian đã dạy ông để ông đệm đàn cho bà hát. ”Bà ấy để lại cho mình nhiều hơn là mình để lại cho bà“, ngày nọ ông đã nói như thế với một anh hoa tiêu đang chếnh choáng trong quán rượu Mac Elroy, nằm đâu đó ở vùng châu thổ Amazone. Và điều đó đúng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét